Wednesday, February 11, 2015

Những điều kiện cần thiết để học giỏi tiếng Anh

Bài viết được dịch từ AntiMoon

Bạn cần thay đổi lối sống để thu được kết quả tốt trong việc học tiếng Anh.Bạn cần thay đổi lối sống để thu được kết quả tốt trong việc học tiếng Anh.

1. Bạn cần phải thay đổi lối sống

Học tiếng Anh đòi hỏi bạn phải thực hành nhiều. Bạn có thể đã biết tất cả các bí quyết để học tiếng Anh được tốt, nhưng nếu không bắt tay vào thực hiện những bí quyết đó thì bạn sẽ không thu được kết quả gì cả. Một thực tế là, nếu bạn muốn học giỏi tiếng Anh thì bạn phải thực sựthay đổi lối sống của mình. Dưới đây là một số điều mà bạn nên thực hiện theo để thu được kết quả tốt nhất:
Đọc một cuốn sách tiếng Anh trong vòng một giờ mỗi ngày, phân tích ngữ pháp của các câu văn và tra từ điển những từ mà bạn chưa biết.
+ Nghe các loại băng đĩa hoặc các loại sách dạng audio bằng tiếng Anh trên Internet, thỉnh thoảng dừng nghe, cố gắng hiểu xem họ đang nói về vấn đề gì, và thử bắt chước giọng phát âm của người đọc.
+ Dành ra 30 phút mỗi ngày chỉ để tập phát âm cho bằng được âm “r” trong tiếng Anh.
+ Tập viết email bằng tiếng Anh một cách cẩn thận, sử dụng từ điển hoặc tìm kiếm trên Internet mỗi 20 giây để chắc chắn rằng mỗi từ bạn viết ra đều đúng chính tả, và dành ra 5 phút để viết một câu.
+ Suy nghĩ về một số câu tiếng Anh mà bạn đã đọc, tự hỏi rằng liệu có thể dùng “a” thay vì dùng “the” trong câu đó hay không, và thử tìm các câu tương tự trên Internet để có được câu trả lời.
+ Đi dạo ra phố và tự nghĩ ra những câu tiếng Anh đơn giản trong đầu (nói chuyện một mình bằng tiếng Anh về những thứ mà bạn nhìn thấy xung quanh).
Có thể bạn sẽ thắc mắc dạng người nào lại đi làm những việc kỳ quặc ở trên? Xin thưa, chỉ có một dạng thôi. Đó là những người thích làm những việc đó. Nếu bạn muốn học giỏi tiếng Anh, bạn cũng sẽ cần trở thành dạng người kiểu này. Bạn đã bao giờ nghe thấy một ai đó trở nên thành công nhờ vào làm những công việc mà anh ta ghét chưa?

2. Một số vấn đề khó khăn

Vấn đề đối với việc dạy và học tiếng Anh là tất cả người học đều muốn nói tiếng Anh thật giỏi; tuy nhiên, hầu hết lại không muốn dành thời gian để tự học tiếng Anh. (Đó có thể là lý do tại sao rất nhiều người đăng ký các lớp học tiếng Anh và hy vọng rằng giáo viên sẽ “nhồi nhét” kiến thức vào đầu dùm họ).
Sự thiếu động lực này nghĩa là người học nói chung không chịu dành thời gian để tự học tiếng Anh, và nếu có thì cũng không được duy trì thường xuyên. Ví dụ, người học có thể học về các thì của động từ trong vòng 12 tiếng đồng hồ trước một kỳ thi tiếng Anh. Tuy nhiên, anh (cô) ta lại không chịu đọc lấy một cuốn sách tiếng Anh khoảng 30 phút mỗi ngày. Mọi người không cảm nhận được là học tiếng Anh cũng có cái thú vị riêng của nó, do đó họ chỉ học khi nào bị bắt buộc. Vấn đề là nếu bạn học với một khối lượng lớn tại một thời điểm sẽ không thu được kết quả gì, nhưng nếu bạn học một chút mỗi ngày thì lại có rất nhiều kết quả.

3. Những thái độ tiêu cực

Một trong những lý do tại sao mọi người không muốn dành thời gian để tự học tiếng Anh là do họ luôn gán việc học tiếng Anh với những điều khó chịu. Khi nghĩ đến việc “học tiếng Anh”, mọi người thường liên tưởng đến các lớp học tẻ nhạt, những giáo trình khó nuốt và những bài tập về nhà chán ngắt. Ngay cả khi biết rằng tiếng Anh rất cần cho công việc của họ, thì đó cũng không phải là động lực nếu như họ cũng đang chán việc! Trong tâm trí họ, học tiếng Anh là một cái gì đó phải làm, chứ không phải là điều muốn làm.

4. So sánh giữa một học viên bình thường và 

một học viên có nhiều động lực

Đọc sách tiếng Anh 30 phút mỗi ngày là một cách học thu được kết quả rất tốt.Đọc sách tiếng Anh 30 phút mỗi ngày là một cách học thu được kết quả rất tốt.
Paula là một học viên tiếng Anh bình thường có một một động lực học tập ở mức trung bình. Cô thỉnh thoảng cũng có những lúc đặt quyết tâm cao – như trước kỳ thi tiếng Anh hoặc vào lúc cô không thể nói chuyện được với một khách hàng ngoại quốc gọi điện đến giao dịch. Khi gặp những lúc này cô nghĩ “Mình cần phải làm gì đó để cải thiện vốn tiếng Anh của mình mới được!”. Tuy nhiên, việc này xảy ra rất hiếm – không đến một lần mỗi tháng. Vì vậy thậm chí nếu cô học với cường độ khá cao (ví dụ: học toàn bộ hai ngày trước kỳ thi) thì kết quả thu được là rất thấp, bởi vì cô sẽ quên đến 90% những gì đã học được chỉ trong vòng một tháng sau đó. Chúng ta cũng không quá ngạc nhiên về điều này. Để có thể nhớ được lâu thì bạn phải luôn luôn làm mới và ôn lại kiến thức, nếu không bạn sẽ quên chúng chỉ sau một thời gian ngắn.
Bây giờ chúng ta hãy quan sát một học viên tiếng Anh khác là Judy. Judy thường đọc một cuốn tiểu thuyết đặc biệt dành cho người học tiếng Anh (được viết theo lối tiếng Anh đơn giản) hầu như mỗi ngày trong vòng 30 phút. Cô mua một cuốn từ điển Anh-Anh và sử dụng nó để tra những từ chưa biết mà cô gặp phải khi đọc sách. Rất khó để thực hiện một cách đều đặn công việc này vào thời gian đầu; đọc sách và sử dụng từ điển  không phải là “điều dễ làm” đối với cô. Và mỗi câu tiếng Anh thực sự là một thử thách.
Nhưng bây giờ, chỉ sau hai tuần cô đã có thể đọc nhanh hơn. Trong khi đọc, cô thường bắt gặp những từ đã học hai tuần trước đó. Khi nhận ra những từ này, cô đã không phải tra chúng trong từ điển nữa và cảm nhận thấy rằng mình đang thu được kết quả rất tốt. Judy cảm thấy vốn tiếng Anh của mình tăng lên rất nhanh và cô càng háo hức muốn học thêm. Mỗi ngày, Judy đều mong chờ đến thời gian rảnh để được đọc sách. Cuốn sách tạo cho cô nhiều sự thay đổi, và Judy luôn áp dụng những điều mà cô đã học được vào cuộc sống (cùng với niềm hân hoan với sự tiến bộ mỗi ngày) và học càng ngày càng nhiều hơn. Do duy trì được thói quen đọc sách thường xuyên, Judy quên ít hơn và vốn từ vựng ngày càng tăng lên.
Judy đang học đúng phương pháp. Cô sẽ sớm trở thành một người có thể đọc các bài báo viết bằng tiếng Anh và những tài liệu được viết dành riêng cho người bản xứ.

5. Bạn cần phải làm gì?

Nếu bạn là người giống Paula và không muốn đọc các cuốn sách tiếng Anh trong thời gian rảnh rỗi, hay không thích suy nghĩ về cấu trúc câu tiếng Anh, hoặc không kiên trì luyện phát âm chuẩn âm “r”, thì bạn sẽ phải học theo một cách khác. Có nhiều phương pháp học khác có thể giúp bạn có thêm động lực, nhưng cách tốt nhất là bạn nên kết hợp việc học với một điều gì đó tạo ra nhiều niềm vui.
Nếu bạn có thể sử dụng vốn tiếng Anh của bạn để xem các đoạn phim hài trên Internet, hay đọc một bài báo viết về ban nhạc bạn yêu thích hoặc thảo luận với một số người trên các diễn đàn, bạn sẽ nghĩ rằng tiếng Anh là chìa khóa tạo ra nhiều niềm vui. Khi bạn nghĩ đến “tiếng Anh”, bạn sẽ không còn liên tưởng đến các lớp học nhàm chán, những quy tắc ngữ pháp khô khan và một mớ từ vựng cần phải nhớ nữa – trái lại bạn sẽ liên tưởng đến những chương trình TV vui nhộn, ban nhạc mà bạn hâm mộ hay những người mà bạn ưa thích. Trong tâm trí bạn, tiếng Anh không còn gắn liền với những chủ đề tẻ nhạt tại trường học nữa – mà ngược lại nó là phương tiện để bạn tìm được nhiều niềm vui mỗi ngày.
Chúc bạn thành công!
[bài viết được chia sẻ từ vinacode site. thanks vinacode]
Đọc tiếp

Học tiếng Anh hiệu quả bằng phương pháp Input

[Note: thanks vinacode site. mao5 phep1 chia se3 bai2 viet61 len6 blog cua3 minh2 :)]

Bài viết được dịch từ Antimoon.com

Lời bàn của Vinacode:
Hôm nay chúng ta sẽ bàn về phương pháp học tiếng Anh input, vậy input nghĩa là gì và tại sao chúng ta lại phải cần nó để có thể giỏi tiếng Anh? Theo mình nghĩ, thực ra việc học ngoại ngữ của chúng ta cũng giống như việc một em bé khi học nói vậy. Từ trong bụng mẹ thì em bé đã có thể nghe thấy mọi người nói, khi chào đời em bé đó tiếp tục lắng nghe thêm mấy năm nữa trước khi bập bẹ được vài câu (chủ yếu là lặp lại các câu mà nó nghe thấy người lớn nói, nên nhiều lúc rất buồn cười), cứ dần dần theo thời gian thì các nơ-ron thần kinh kết nối với nhau và hình thành nếp nhăn trên vỏ não, đến tuổi lên 5 thì em bé đó đã nói được khá hoàn chỉnh.
Chúng ta nên học tiếng Anh theo phương pháp của em bé học nói.
Chúng ta nên học tiếng Anh theo phương pháp của em bé học nói.
Việc học ngoại ngữ ở người lớn tuổi thì khó hơn rất nhiều, vì tiếng mẹ đẻ đã hình thành và hằn sâu trong bộ não của chúng ta. Bởi vậy mình nghĩ nếu muốn nghe nói được như người bản xứ thì mình phải input (nghe & đọc) thật nhiều. Bộ não em bé thì giống như một cái ổ cứng HDD mới mua về, chưa có dữ liệu gì trong đó nên “ghi” vào dễ hơn. Còn bộ não của người lớn thì giống như một cái HDD cũ chứa đầy dữ liệu, bởi vậy chúng ta phải tìm cách format, fdisk nó (hay còn gọi là tẩy não :P ) bằng phương pháp input thật nhiều. Quá trình này khá “đau khổ”, nhưng mình đang áp dụng và thấy rất hiệu quả.:)
Bạn hãy đọc bài viết sau để rõ hơn về phương pháp input này nhé! Chúc bạn thành công.
Bạn cần phải input vào bộ não thật nhiều tiếng Anh (đọc & nghe) trước khi có thể output như người bản xứ!Bạn cần phải input vào bộ não thật nhiều tiếng Anh (đọc & nghe) trước khi có thể output như người bản xứ!

Mô hình của việc học ngôn ngữ

Bạn đã từng bao giờ tự hỏi rằng làm thế nào mà mình lại có khả năng nói tiếng mẹ đẻ dễ dàng đến như vậy? Khi bạn muốn nói một điều gì đó (diễn tả một ý nào đó) và thế là các câu và cụm từ đúng cứ tuôn trào đến bạn. Hầu hết quá trình này đều diễn ra một cách vô thức: các nội dung cứ xuất hiện trong đầu của bạn. Bạn có thể diễn đạt nó ra, nhưng bạn không biết là nó đến từ đâu. Mô hình này sẽ giải thích quá trình đó diễn ra như thế nào:
  1. Bạn nhận thông tin vào đầu mình (input) — khi bạn đọc và lắng nghe các câu trong một số ngôn ngữ. Nếu bạn hiểu những câu đó, thì chúng sẽ được lưu trữ vào trí não của bạn. Đặc biệt hơn, chúng sẽ được lưu trữ vào phần của bộ não mà chịu trách nhiệm về mặt ngôn ngữ của bạn.
  2. Khi bạn muốn nói hoặc viết một điều gì bằng ngôn ngữ đó (khi mà bạn muốn đưa ra mộtoutput), thì bộ não của bạn có thể tìm kiếm một câu mà bạn đã từng nghe hoặc đọc trước đây — một câu phù hợp với ngữ nghĩa mà bạn đang muốn diễn đạt. Sau đó, bộ não bắt chước những câu này (để tạo ra một câu y chang hoặc gần giống như vậy) và bạn sẽ nói câu “của bạn” trong ngôn ngữ đó. Quá trình này diễn ra hoàn toàn vô thức: bộ não sẽ thực hiện công việc một cách hoàn toàn tự động.

Bình luận về mô hình nói trên

Dĩ nhiên, mô hình này thì rất đơn giản. Bộ não không thực sự tìm kiếm toàn bộ các câu, mà đúng ra là nó tìm các phần của các câu (các cụm từ). Nó có thể tạo ra các câu rất dài và phức tạp từ những phần này. Vì vậy nó không chỉ “bắt chước” một câu tại một thời điểm. Nó sử dụng nhiều câu tại một thời điểm để tạo ra những câu mới.
Ví dụ, bộ não “biết” rằng nó có thể lấy một từ trong một câu mà nó đã từng nghe và thay thế một từ khác (một từ tương đương) cho từ đó. Ví dụ, nếu nó đã từng nghe câu “The cat is under the table (Con mèo ở dưới cái bàn)”, thì nó có thể dễ dàng tạo ra câu “The dog is under the table (Con chó ở dưới cái bàn)” hoặc “The book is under the chair (Cuốn sách ở dưới cái ghế)” (nếu nó cũng đã từng nghe và hiểu các danh từ như dogbook, và chair). Nó có thể thay thế nhiều hơn một từ, như là “The cat is under the big black table (Con mèo nằm dưới cái bàn lớn màu đen đó)”.
Bộ não cũng có thể làm những chuyển đổi cao cấp hơn. Nếu bạn đưa cho bộ não 3 câu sau đây,
I like golf. (Tôi thích chơi gôn.)
I like fishing for salmon. (Tôi thích câu cá hồi.)
Golf is relaxing. (Chơi gôn rất thư giãn.)
thì nó có thể tạo ra câu này:
Fishing for salmon is relaxing. (Câu cá hồi thì rất thư giãn.)
Ở đây, một cụm từ chứa danh động từ (“fishing for salmon — câu cá hồi”) đã được dùng để thay thế cho một danh từ thông thường (golf — gôn). Và kết quả là, chúng ta nhận được một câu hoàn toàn mới mà không giống bất kỳ câu nào trong số 3 câu đầu vào (input).
Những nghiên cứu này không thay đổi một thực tế quan trọng bậc nhất rằng: bộ não của chúng ta cần thu nhận nhiều dữ liệu đầu vào (input). Càng nhiều câu dễ hiểu và đúng mà nó nhận được, thì nó càng có thể bắt chước nhiều câu và thậm chí tốt hơn nữa là nó tự tạo ra các câu của riêng bạn.
Thực ra mô hình của việc học ngôn ngữ được mô tả phía trên thì cơ bản dựa trên “giả thuyết về sự nhận thức” (hay còn gọi là “giả thuyết input”) được đề xuất bởi giáo sư Stephen Krashen (thuộc trường đại học Southern California – Hoa Kỳ) và là một phần của công trình “hướng tiếp cận tự nhiên” của ông tới việc học ngôn ngữ.
Mô hình này mô tả quá trình của một em bé trong việc học ngôn ngữ đầu tiên (ngôn ngữ mẹ đẻ) của nó. Em bé đó lắng nghe bố mẹ và người khác nói chuyện trong nhiều năm. Bộ não của nó sẽ thu thập các câu và ngày càng trở nên tốt hơn từng chút một trong việc tạo ra các câu của riêng nó. Và đến tuổi lên 5, em bé đó có thể đã hoàn toàn nói được khá trôi chảy.
Nhưng mô hình đó cũng đúng cho việc học một ngoại ngữ. Trên thực tế, có lẽ đó là cách duy nhất để học tốt một ngôn ngữ.

Mô hình nào dành cho người học ngoại ngữ

Đây là những điểm quan trọng nhất trong mô hình nói trên từ góc nhìn của việc học ngoại ngữ:
  • Bộ não tạo ra các câu dựa trên những câu mà nó đã từng nhìn hoặc nghe thấy (input). Vì thế bạn hãy tăng cường việc cung cấp cho bộ não của mình thật nhiều dữ liệu input— đó là các câu đúng và dễ hiểu (trong cả viết và nói). Trước khi bạn có thể bắt đầu nói và viết bằng một ngoại ngữ thì bộ não của bạn phải nạp đủ các câu đúng trong ngôn ngữ đó đã.
  • Output (nói hoặc viết ra) thì không quan trọng bằng. Đó không phải là cách để cải thiện các kỹ năng ngôn ngữ của bạn. Trong thực tế, nên nhớ rằng bạn có thể phá hủy độ chuẩn tiếng Anh của mình thông qua việc output ra một cách quá sớm và quá cẩu thả (nói và viết ra một thứ tiếng Anh bồi sẽ làm bạn không bao giờ có thể sử dụng đúng tiếng Anh chuẩn được nữa).
  • Bạn không cần nắm các quy tắc ngữ pháp. Bạn đã học tiếng mẹ đẻ của mình mà không cần phải học các thì hoặc giới từ đúng không? Bởi vậy bạn cũng có thể học một ngoại ngữ theo cách đó.

Phương pháp Input có thể thay đổi trình độ

 tiếng Anh của bạn như thế nào

Nếu bạn đọc một vài cuốn sách tiếng Anh, thì bạn sẽ nhận ra rằng vốn tiếng Anh của mình đã trở nên tốt hơn. Bạn sẽ bắt đầu sử dụng những từ vựng và ngữ pháp mới học được trong bài luận tại trường và các bức email. Bạn sẽ rất ngạc nhiên, nhưng các cụm từ tiếng Anh cứ tuôn đến với bạn khi bạn viết hoặc nói! Những thứ kiểu như thì quá khứ đơn và cách sử dụng từsince sẽ trở thành một phần của bạn. Bạn sẽ sử dụng chúng một cách tự động mà không cần phải suy nghĩ gì. Các cụm từ đúng sẽ cứ xuất hiện trong đầu bạn.
Việc sử dụng tiếng Anh sẽ trở nên dễ dàng hơn, bởi vì bộ não của bạn chỉ lặp lại những thứ mà nó đã từng nhìn thấy rất nhiều lần. Bằng cách đọc sách bằng tiếng Anh, bạn đã cung cấp cho bộ não của mình hàng ngàn câu tiếng Anh. Bây giờ chúng là một phần của bạn. Làm sao mà bạn có thể phạm một lỗi khi nói là feeled, nếu bạn đã nhìn thấy dạng đúng của nó là felt đến 50 lần trong cuốn sách bạn vừa đọc gần đây cơ chứ? Chỉ đơn giản là bạn không thể phạm lỗi đó chút nào nữa.
Chắc chắn bạn sẽ để ý rằng có một sự tiến bộ trong bài kiểm tra tiếng Anh tiếp theo của mình. Ví dụ, trong các câu hỏi dạng trắc nghiệm, bạn sẽ “cảm thấy” đáp án nào là đúng. Bạn có thể không biết “tại sao” nó lại đúng (bởi vì bạn không có khả năng đưa ra các quy tắc cho nó), nhưng bạn sẽ biết là nó đúng. Bạn biết điều đó bởi vì bạn đã đọc nó rất nhiều lần.
Điều này đúng cho cả các từ và cấu trúc ngữ pháp. Nếu bạn đọc trong tiếng Anh, thì bạn có thể quên đi các quy tắc về ngữ pháp. Hãy quẳng cuốn sách ngữ pháp của bạn ra xa! Bạn không cần biết các quy tắc cho thì hiện tại hoàn thành. Thậm chí bạn không cần biết đến cái tên “thì hiện tại hoàn thành” là gì cả. Thay vì đó, hãy đọc một vài cuốn sách bằng tiếng Anh, và bạn sẽ sớm cảm thấy rằng câu “I have seen Paul yesterday” là sai, và “I saw Paul yesterday” là đúng. Câu đầu tiên chỉ đơn giản là nghe thấy sai. Làm sao mà bạn biết? Rất đơn giản. Bộ não của bạn đã nhìn thấy dạng câu thứ hai đến 192 lần, và dạng câu thứ nhất là 0 lần.
Bạn có biết điểm khác biệt giữa một học viên và một người nói tiếng bản xứ không? Người bản xứ “cảm thấy” điều gì đó là đúng. Anh ta có thể nói rằng một câu nào đó nghe có vẻ đúng hay sai (gượng gạo) và anh ta không cần sử dụng các quy tắc ngữ pháp để nhận ra điều đó. Anh ta có thể làm điều này bởi vì anh ta đã nghe và đọc rất nhiều câu tiếng Anh trong cuộc đời của mình. Điểm khác biệt duy nhất giữa một học viên và một người bản xứ — đó là số lượng dữ liệu đầu vào (input). Bạn cũng có thể trở thành giống như một người bản xứ nếu bạn cũng input (đọc & nghe) thật nhiều.

Tôi đã nhận ra mình là một người nói tiếng Anh

 bản xứ như thế nào

Tôi sẽ chẳng bao giờ quên được khoảnh khắc lần đầu tiên mình mở cuốn sách Practical English Usage của tác giả Michael Swan (một cuốn sách tuyệt vời để tham khảo về cách dùng ngữ pháp tiếng Anh). Đó là vào thời điểm tôi đang học năm cuối ở trung học và lúc đó tôi cũng đã rất giỏi tiếng Anh rồi. Cuốn sách đó thì chứa đầy đủ về ngữ pháp tiếng Anh và cách dùng trong các tình huống kiểu như “khi nào thì bạn nên sử dụng below và khi nào thì nên sử dụng under?” và “những dạng nào mà bạn có thể diễn tả cùng với từ must?”. Với mỗi vấn đề, đều có các câu ví dụ (chỉ ra cách đúng và sai khi nói một điều gì đó) và các quy tắc kiểu như là “Sử dụng underkhi một vật gì đó bị bao bọc hoặc che khuất bởi một vật khác ở trên nó, và khi đồ vật đó có thể sờ tới được”.
Tôi lướt qua cuốn sách đó, xem hết trang này đến trang khác. Khi xem một ví dụ không đúng, tôi đã nghĩ “Dĩ nhiên là câu này sai; trông nó thấy mà ghê”. Và khi xem các quy tắc ngữ pháp, tôi đã nghĩ rằng “Ồ, mình đâu có biết những quy tắc này đâu”. Cứ trang này qua trang khác, tôi đã có một ấn tượng rằng mình không biết một chút gì về các quy tắc trong cuốn sách đó, và… tôi cũng không cần chúng! (Thực ra nếu có muốn thì tôi cũng chẳng thể học và nhớ hết cả mớ ngữ pháp như vậy). Tôi có khả năng chỉ cần nhìn vào một câu và có thể “phán” ngay là nó đúng hay sai.
Tôi đã trở nên giống như người bản xứ nói tiếng Anh. Bằng cách đọc sách, xem TV, lắng nghe các bản ghi âm, v.v… Tôi đã thực hiện rất nhiều input (đọc & nghe) và đã phát triển được một trực giác trong tiếng Anh.
Đọc tiếp

Friday, December 27, 2013

Câu chuyện cậu bé và cây táo

Ngày xưa có cậu bé nhỏ và một cây táo thật to làm bạn với nhau. Cậu bé đến chơi với cây táo mỗi ngày, leo lên cây, hái táo ăn rồi nằm ngủ dưới bóng cây to. Cậu bé rất yêu mến cây táo và cây táo rất thích chơi với cậu.

Thời gian qua mau, cậu bé đã lớn lên và không còn đến chơi với cây táo mỗi ngày nữa. Một ngày nọ, cậu đến ngồi cạnh cây táo và có vẻ buồn bã. Cây táo nói với cậu “tới chơi với tôi đi”. Cậu nói “tôi không còn bé con nữa, tôi không còn thích chơi với cái cây nữa, tôi muốn có tiền để mua đồ chơi, tôi thích đồ chơi”. Cây táo nói “xin lỗí cậu nhé, tôi không có tiền nhưng cậu có thể hái hết những trái táo trên thân tôi rồi mang bán đi để lấy tiền mua đồ chơi”. Cậu bé vui sướng quá, cậu hái hết những trái táo trên cây rồi chạy mang ra chợ bán lấy tiền. Sau đó không thấy cậu trở lại nữa. Cây táo buồn lắm vì nó nhớ cậu bé.

Một thời gian lâu sau, cậu bé lại trở lại ngồi cạnh cây táo nhưng nay cậu đã trở thành một thanh niên đứng tuổi.  Cây táo vui sướng quá, nó nói với cậu “tới chơi với tôi đi”, cậu bé có vẻ suy nghĩ rồi cậu nói
Đọc tiếp

Chuyện Về Hai Hạt Lúa

Khi đứng trước cánh đồng cuộc đời bao la này, bạn sẽ quyết định lựa chọn như thế nào? Hãy can đảm bước đi đừng bao giờ tự khép mình trong lớp vỏ chắc chắn để cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của bản thân mà hãy can đảm bước đi…

Có hai hạt lúa nọ được giữ lại để làm hạt giống cho vụ sau vì cả hai đều là những hạt lúa tốt, đều to khỏe và chắc mẩy.

Một hôm, người chủ định đem chúng gieo trên cánh đồng gần đó. Hạt thứ nhất nhủ thầm: “Dại gì ta phải theo ông chủ ra đồng. Ta không muốn cả thân mình phải nát tan trong đất. Tốt nhất ta hãy giữ lại tất cả chất dinh dưỡng trong lớp vỏ này và tìm một nơi lý tưởng để trú ngụ.” Thế là nó chọn một góc khuất trong kho lúa để lăn vào đó.

Còn hạt lúa thứ hai thì ngày đêm mong được
Đọc tiếp

Thursday, December 19, 2013

Suy ngẫm cho ngày mới chút ấp ấm


Suy ngẫm cho một ngày mới chút ấp ấm

Không đi qua những ngày mưa, ngày nắng sao ta biết những ngày lạnh buốt tê cóng thân mình phải không các bạn....

KISS THE RAIN

Có những sai lầm sẽ mãi là sai lầm và ta đau khổ khi nhận ra mình sai lầm nhưng nhờ có nó ta bỗng giật mình: điều sai lầm duy nhất của ta là phủ nhận những gì trái tim ta thật sự cảm nhận.
Đọc tiếp